tai chi, taiji, qigong

CHỨNG NGHIỆM KHÍ CÔNG

1. Tự chữa trị bệnh lao
Năm 1900, thầy Yun đã 28 tuổi. Trong làng, bệnh ho lao đang hoành hành. Một thân nhân của ông đã chết vì bệnh này, và ông cũng bắt đầu ho. Vài tháng sau, thấy khạc ra máu, hoảng hồn – ông đi tham khảo ở các trưởng lão và lương y cổ truyền trong làng. Mọi người đều xác định phương thuốc bấy giờ là nghỉ ngơi nơi không khí trong lành và ánh nắng. Tuy nhiên, có người nhắc lại chương cuối quyển \”Phương dược\” cho rằng cách nghỉ ngơi tốt nhất là phép tĩnh tọa của Đạo gia. Do đó, ông học cách khai thông tiểu châu thiên, có tác dụng lớn lao trong việc kích thích sức đề kháng tự nhiên của cơ thể.

Thầy Yun nhớ lại bản thân đã từng tập công phu này từ năm lên mười, nhưng không thường xuyên. Nay, thấy chết đến nơi, ông đọc lại kỹ và đi hỏi các trưởng lão về các chi tiết khó hiểu. Sau đó, ông đi tìm một cái chòi hẻo lánh, mỗi ngày hành bốn khóa, mỗi khóa hai giờ.

Vào ngày thứ 95, ông nghe chuyển động ở vùng rốn. Một luồng nhiệt khí đi theo cột sống lên đầu. Sáu buổi chiều liên tiếp, lúc công phu, các cảm giác này tái hiện: rung chuyển ở rốn, nóng trong cột sống lên đến đầu. Một tuần sau, hình như ông có một cơ thể hoàn toàn mới mẻ. Mọi triệu chứng ho lao đã tan biến, ông cảm thấy nhẹ người và sảng khoái.

Hai năm sau, ông lại thấy rung động trong vùng rốn liên tiếp ba buổi chiều. Một luồng nhiệt khí ồ ạt trong cột sống, va vào xương chẩm, làm rất đau. Buổi chiều kia, ông tưởng chừng như xương sọ vỡ ra, và hơi nóng xoáy trên đầu. Mỗi lần công phu, hiện tượng đó lại tái diễn. Sáu tháng trôi qua. Đến một buổi chiều luồng nhiệt khí xoay tròn trên đỉnh đầu rồi trở xuống mặt, ngực, và sau cùng về rốn. Kể từ ngày đó, khí luôn luôn chạy theo vòng tròn. Thầy Yun sống lại cuộc đời bình thường, và không bao giờ mắc bệnh nữa – ông qua đời năm 90 tuổi, trước đó vẫn còn nhanh nhẹn.

2. Thầy Từ Bá Uy thoát chết nhờ khí công

\”Tự nhiên công\” được tạo thành do sự dung hợp giữa \”Chỉ gián pháp môn\” của Phật gia và \”Thông qua triển khiếu công\” của Đạo gia. Đây là một thứ ngọa công, rất thích hợp cho người quá bận, quá mệt, cho người già yếu, hay tàn tật, cả cho người bệnh nặng phải nằm một chỗ nhiều năm.

Tôi luyện \”Tự nhiên công\” trong lúc bệnh đã nguy kịch, và nhờ đó mà thoát chết. Chớ nên nghĩ rằng hiệu quả của ngọa công là hạn chế, tất cả những thu hoạch to lớn của tôi đều đạt được từ sự luyện công này.

Năm 1953, tôi bị bệnh nặng, thuốc chữa đều vô hiệu, bất đắc dĩ tôi phải thực tâm luyện công cho tới nay đã thành thói quen. Mỗi ngày bất cứ ở vào hoàn cảnh nào, tôi cũng luyện công đều đặn. Hai năm sau, tôi đã chữa lành chứng loét dạ dày. Bảy năm sau đó, tôi đã chữa lành các chứng cao huyết áp, thần kinh suy nhược và đau lưng.

Năm 1962, tôi dùng \”Tự nhiên công\” chữa lành bệnh thủy thủng do thiếu dinh dưỡng. Lúc mới bệnh, với kiến thức sơ sài về y học, tôi cho là mình thiếu những chất đãn bạch nào đó mới sinh bệnh. Nếu không bổ suy cho cơ thể các chất cần thiết đó, thì e rằng không chữa được phù thũng, nên tôi không dùng \”Tự nhiên công\”, mà chỉ uống thuốc bổ, tăng lực.

Kết quả là tôi bị sưng phù khắp thân thể, toàn thân láng bóng, hai mắt đỏ ngầu, khi nằm xuống thấy khó thở, đến nỗi phải nằm co rút mà thở hổn hển. Có một đêm bệnh tình xấu nhất, tôi nghe người chung quanh bàn nhau lo chuyện hậu sự cho tôi.

Thấy cái chết trước mắt, tâm trạng tôi bỗng thay đổi hẳn. Tất cả các tạp niệm, vọng tưởng xưa nay vốn kéo níu tôi – dù đó là chuyện ân oán, xấu tốt, được mất, hy vọng, tính toán.. tôi đều không màng tới nữa. Mọi thứ như đám mây tan biến cả, chỉ còn lại hai việc, một là tìm cái sống trong cái chết bằng cách luyện \”Tự nhiên công\”, hai là nếu vạn nhất có chết đi thì nguyện vãng sinh tịnh độ. Từ đó tôi vừa luyện công, vừa niệm Phật liên tiếp trong hai ngày. Lạ thay, bỗng nhiên tôi cảm thấy nội khí chuyển động, xông vỡ các mạch lạc, quan khiếu vốn tối tăm, lạnh lẽo, nặng nề do chứng phù thũng gây ra. Khí vận hành khắp châu thân. Rồi cứ cách khoảng vài giờ, tôi đi tiểu rất nhiều nước. Tôi hoàn toàn không uống thuốc, chích thuốc hay ăn uống chất dinh dưỡng nào cả. Trong tình trạng sinh hoạt tồi tệ nhất, chỉ có mười sáu ngày sau, chứng phù thũng của tôi đã dứt hẳn.

Câu chuyện này đã làm các thầy thuốc ngạc nhiên. Riêng bản thân tôi có những nhận xét như sau. Khí công nhập tịnh là một phép tự chữa bệnh có tính chất toàn diện. Tác dụng chính của nó là \”phù chính khử tà, bồi nguyên cố bản\”.

Đứng trước cái chết, tôi đã vất bỏ tất cả các tạp niệm vọng tưởng mà chuyên tâm niệm Phật, lấy nhất niệm thay thế vạn niệm. Điều này không những làm cho võ não bớt đi sự tiêu hao năng lượng mà còn bị ức chế không ra lệnh lung tung nữa. Có người cho rằng luyện khí công có tác dụng dự trữ năng lượng, có lẽ do sự giảm tiêu hao năng lượng mà ra vậy.

Trong trạng thái ức chế có tính chất bảo vệ vừa rộng vừa sâu của võ não làm cho các kích thích bên ngoài và bên trong cơ thể khó gây ra phản ứng dương tính, cắt đứt ảnh hưởng có hại cho người bệnh.

Sự ức chế này còn xóa bỏ các quấy nhiễu của tình cảm như mừng, giận, lo, buồn, sợ hãi v.v… khiến võ não có thể phát huy tác dụng điều chỉnh lành mạnh ở bộ tư lệnh tối cao để khôi phục và duy trì sự cân bằng đối với các biến dộng do hoàn cảnh trong và ngoài cơ thể gây ra.

Sự ức chế này còn làm cho trung khu dưới da được giải phóng công năng của thần kinh mang tính thực vật được khôi phục bình thường.

Nhưng còn một vấn đề làm tôi băn khoăn là tại sao chứng phù thũng do thiếu dinh dưỡng lại đơn độc nhờ luyện công và niệm Phật mà chữa lành? Phải chăng do sự chuyên tâm trì chí, dốc hết tinh thần vào công việc mà \”tinh thành sở chí kim thạch di khai\” ? (lòng thành tới đâu, vàng đá vỡ tới đó). Đây không phải là phép thuật thần thông, mà chính là năng lực sinh lý tiềm tàng ai cũng có, được phát huy và bộc lộ ra. Trong nguy cấp, ta làm được những việc mà bình thường không sao làm nổi, đó là một điều mà ai cũng biết cả.

Dùng tâm lý để tạo ảnh hưởng đến sinh lý không có gì là thần bí. Nó chính là tác dụng từ năng động chủ quan được con người ứng dụng vào tồn tại khách quan vậy. Bất cứ người bình thường nào khi đã trải qua một sự rèn luyện nhất định cũng làm được.

Thể nghiệm của tôi là năng lực tiềm tàng của sinh lý trong cơ thể con người chỉ có thể phát huy, bộc lộ ra được trong trạng thái nhập tịnh của khí công và chuyên tâm quyết chí, dốc hết tinh thần vào đó. Mức độ phát huy của nó tỉ lệ thuận với mức độ nhập tịnh và chuyên chú.

Từ đó về sau, tôi không uống thuốc hay chích thuốc nữa. Hai mươi năm trở lại đây, đối với các bệnh nặng hay nhẹ, tôi đều luyện công chữa trị, sức khỏe lại dồi dào. Trí nhớ, khả năng lý giải và năng lực vận dụng ngôn ngữ của tôi có phần phát triển.

Đến nay, xương tôi vẫn thẳng, gân vẫn dẻo dai, lưng vẫn mềm, chân vẫn đi đứng tiện lợi, sắc mặt hồng hào, sức khỏe tốt hơn cả ba mươi năm trước.

3. Tự chữa bệnh bằng khí công của y sĩ Mai Tự Cường

Tôi mồ côi mẹ từ năm lên bốn. Cha tôi ở xa nên tôi phải sống nhờ bà ngoại. Bà rất nghèo, ngày hai bữa cơm cũng không đủ, nên cơ thể tôi phát triển không được tốt. Tôi gầy yếu như que cùi, lại bệnh hoạn luôn. Láng giềng cho rằng chắc chắn tôi sẽ chết yểu.

May thay, vào năm 15 tuổi, tôi được chỉ dạy tập môn \”Dưỡng sinh nội công\” và đã tự lực tự cường luyện công không gián đoạn. Từ đó, tôi ăn thấy ngon, thể lực từ yếu chuyển thành mạnh, não bộ ngày càng phát đạt, tất cả được chuẩn bị tốt để vượt qua cuộc sống đầy gian khổ sau này.

Vì tôi mồ côi, nhà nghèo nên chỉ học hết bậc sơ cấp tiểu học. Từ năm 11 tuổi, tôi phải đi học thí công nghề thuốc trung y. Vốn yếu đuối chậm chạp nên tôi thường bị sư mẫu ngược đãi. Trong thời gian học, tôi làm bếp, làm chuyện vặt vãnh, giữ em và luôn bị mắng chửi, đánh đập. Sọ đầu của tôi trở thành \”chuông mõ\” khi bị sư mẫu \”tụng kinh\”. Lắm khi tôi bị đánh đến choáng váng, đầu óc mắt linh hoạt đến nỗi không đọc được truyện. Nhờ luyện công, tôi dần dần trở nên mạnh khỏe, bộ não phát triển.

Đặc điểm của \”Dưỡng sinh nội công\” là giúp khí mạch được thông đạt tới chỗ \”thân khí hữu dư\”. Thận khí có dư mới có thể \”hoàn tinh bổ não\”, ích trí cường thân, dù tuổi già nhưng cơ năng vẫn tốt.

Trong đợt chống hữu khuynh, tôi ở tù trong suốt 20 năm. Lúc đầu tôi tiêu ra máu, dần dần chuyển qua bệnh trĩ lậu, nung mủ và đau đớn dữ dội. Trong tù không cho phép luyện công, nên tôi chỉ còn cách âm thầm mặc khiếu, thủ khiếu. Bệnh kéo dài 4 năm, khi đời sống được thay đổi khá hơn thì tôi luyện công, kết quả bệnh lành mà không dùng thuốc.

Bấy giờ tôi chỉ còn nặng có 35kg. Tôi lại bị nám phổi, viêm phổi. Cơn sốt cao kéo dài nhiều ngày. Tôi được đưa đi bệnh viện cách đó 15km, được tiêm 3 mũi thuốc vượng tim, lúc nguy kịch tôi vẫn mặc thủ huyền khiếu, và đã vượt qua cơn bệnh.

Từ nám phổi sinh ra ho, tôi được tiêm thuốc trụ sinh, tai trái bị điếc. Ngoài 2 chân Bạch cập do gia đình gởi vào, tôi chỉ dựa vào luyện công mà chữa hết chứng điếc.

Tôi còn bị đau thần kinh tọa, thấp khớp, phù thũng, đau dạ dày mạn tính, ngất xỉu và 2 lần bị trọng thương. Tất cả đều được chữa lành bằng luyện công. Điều này nói lên công pháp này lúc bình thường đã hữu dụng, lúc tai biến lại hữu dụng hơn.

Đến nay 70 tuổi, tôi vẫn thừa sức khỏe, khí lực sung mãn. Tóc tuy bạc, nhưng vẫn ăn ngon, bước đi vững vàng, sắc mặt hồng hào, tinh thần phấn chấn.

Nguồn: vothuat.net.vn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

error: Content is protected !!